Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

Tiếng anh chiếm vị trí hàng đầu trong các trường đại học

Tiếng Anh không chỉ là một phương tiện dùng để giao tiếp trong đời sống thường ngày mà chiếm lĩnh cả trong lĩnh vực học tập và nghiên cứu. Trong các trường đại học hàng đầu ở những quốc gia không nói tiếng Anh, có khoảng hơn 8000 các khóa học khác nhau được giảng dạy bằng tiếng Anh. Sự tăng trưởng của các khóa học dạy bằng tiếng Anh hơn là tiếng bản địa đã trở nên một hiện tượng toàn cầu.

Tiếng anh là ngôn ngữ phổ thông của giáo dục bậc cao

Các khóa học giảng dạy bằng tiếng Anh không chỉ lôi cuốn hơn 5 triệu sinh viên quốc tế du học, nó còn là sự chọn lựa của nhiều sinh viên ở nước sở tại thích học bằng tiếng Anh hơn là ngôn ngữ mẹ đẻ của họ - nghiên cứu của StudyPortals, một tổ chức đặt ở Hà Lan có thông tin dữ liệu thông tin về 100.000 bằng thạc sĩ và cử nhân tại 2.100 trường đại học trên thế giới cho hay . Cô Carmen Neghina ở tổ chức này nói, công trình xem xét nhóm 1.000 trường hàng đầu trong bảng xếp hạng quốc tế và thấy ba phần tư số trường này có ít nhất một trình độ hoặc nhiều hơn dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Nhóm này cũng bao gồm trường ở các nước nói tiếng Anh như Anh và Mỹ.

Ở các nước thuộc Châu Âu , Hà Lan đang là quốc giá có nhiều khóa học dạy bằng tiếng Anh nhất với 12 trường đại học được xếp hạng trong nhóm cung ứng tổng số 1000 khóa học. Đức có 54 trường đại học hàng đầu trong xếp hạng này với 835 khóa học. Thụy Điển, Đan Mạch và Tây Ban Nha kế tiếp trong bảng xếp hạng với hàng trăm khóa học dạy bằng tiếng Anh dành tặng sinh viên quốc tế. Đây không chỉ là xu thế ở châu Âu mà các trường đại học ở châu Á cũng có xu hướng này. Trong số 112 trường đại học hàng đầu ở nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 45 trường cung cấp một trình độ hoặc nhiều hơn bằng ngôn ngữ tiếng Anh, có 11 trường ở Nhật và sáu trường ở Thái-lan.


Số lượng sinh viên các quốc gia đi du học nước ngoài ngày một tăng có thể khiến khuynh hướng này đi xa hơn. Hans de Wit, giám đốc điều hành trung tâm Giáo dục bậc cao quốc tế, Đại học Boston, Mỹ nói rằng, dự định vào năm 2025, con số sinh viên quốc tế có thể tăng tới tám triệu, đông nhất là từ Trung Quốc, Ấn Độ, và Hàn Quốc nhưng Nigeria cũng đang bắt kịp tương đối nhanh . Các nước nói tiếng Anh bên cạnh Đức và Pháp thu hút phần lớn trong số đó. Tuy nhiên nguy cơ cạnh tranh ngày càng tăng từ những nước khác bao gồm Trung Quốc và các quốc gia phát triển khác.

Ở châu Âu, theo Hiệp hội hợp tác giáo dục, con số khóa học dạy bằng tiếng Anh trong các trường đại học ở các nước không nói tiếng Anh đã tăng 300% trong vòng 7 năm qua. Các khóa học này tập trung chủ yếu ở các quốc gia là ở Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Điển trong khi ở Đức, Pháp và Italia có tỷ lệ thấp chỉ vài phần trăm.
Những khóa học này không chỉ thu hút sinh viên quốc tế theo học mà nó còn khá thu hút với các sinh viên của nước sở tại nhất là đối với sinh viên ở trình độ thạc sĩ, những người muốn thành thạo tiếng Anh như các sinh viên quốc tế mà không phải rời khỏi đất nước này . Theo báo cáo - thống kê của ACA, khoảng 45% chương trình đại học dạy bằng tiếng Anh ở lục địa châu Âu là học trong nước . Trong đó 1 trong số 20 khóa học là chỉ có các sinh viên nước sở tại tham gia.

Và những hệ lụy của tiếng anh đối với khoa học

Tiếng Anh không chỉ phổ biến trong các trường đại học hàng đầu thế giới như một ngôn ngữ chính, điều này cũng đúng trong giới nghiên cứu khoa học. Tham gia vào bất cứ một cuộc hội thảo hay hội nghị có tính chất học thuật nào, những cuộc tranh luận giữa những người tham giá thường diễn ra bằng tiếng Anh. Với bất kỳ ai muốn chia sẻ nghiên cứu của mình, tiếng Anh trở thành phương tiện cho việc học, viết và dạy. Điều đó có thể giúp những người không  có cùng ngôn ngữ hiểu và cộng tác với nhau, nhưng các nhà khoa học lo âu rằng, liệu những nghiên cứu bằng ngôn ngữ khác có bị cho là thứ yếu?

Các giáo sư đại học Đức cho rằng khoa học được hưởng ích lợi từ việc tiếp cận qua những ngôn ngữ khác biệt . Những nhà nghiên cứu mà ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng Anh cho rằng họ phải chấp thuận các thuyết lí và thuật ngữ Anh Mỹ để được công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế chủ chốt . Theo nhà ngôn ngữ Đức Ranier Enrique Hamel, trong năm 1880 có 36% số công bố khoa học áp dụng tiếng Anh, đã tăng thêm 64% vào năm 1980. Tới năm 2000 trong các tạp chí được thừa nhận bởi Báo cáo trích dẫn tạp chí, 96% số bài báo bằng tiếng Anh.

Được công bố trên những tạp chí được công nhận này tác động tới uy tín chất lượng và thứ hạng của các trường đại học, sau đó là ảnh hưởng tới kinh phí, tài trợ và tuyển sinh, nên các trường đại học có đ/cơ khích lệ các nhà nghiên cứu sử dụng tiếng Anh và vòng quay tiếp tục vậy nên . Khuynh hướng này gia tăng khi con số các khóa học dạy bằng tiếng Anh ở châu Âu và châu Á ngày càng tăng lên. Ở Hà Lan, Trường đại học Maastricht có 55 khóa thạc sĩ bằng tiếng Anh và chỉ tám khóa bằng tiếng Hà Lan. Trường đại học Groningen hiện sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chủ chốt để giảng dạy.

Một số trường đại học cũng xúc tiến sự đa dạng ngôn ngữ bằng cách cung cấp những khóa học đa ngôn ngữ. Khóa thạc sĩ về văn hóa kinh điển châu Âu ở một số trường đại học ở châu Âu yêu cầu sinh viên tham dự ít nhất hai trường đại học nơi sử dụng những ngôn ngữ khác nhau. Cũng có lời kêu gọi đơn giản hóa tiếng Anh trong các bài báo, sách hay hội nghị, với những khái niệm khung sử dụng những thí dụ cụ thể hơn là ẩn dụ. Xem tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm cầu nối, dự án Corpus được phát triển bởi những nhà nghiên cứu ở Đại học Helsinki (Phần Lan) lên danh sách một triệu từ «học thuật» tiếng Anh để hướng dẫn các nhà nghiên cứu. Tuy vậy giới khoa học cũng công nhận rằng khi tiếng Anh trở thành phổ quát, thế hệ kế tiếp cũng buộc phải giỏi tiếng Anh hơn.

Theo nhân dân

0 nhận xét:

Đăng nhận xét